Nhiệt độ nước tắm cho người lớn

Tắm nước nóng, lạnh và tắm hơi có nhiều lợi ích, tuỳ theo mục đích, yêu cầu. Nhưng nó cũng có thể gây nhiều tác hại nếu làm sai phương pháp. Nhiệt độ của nước tắm cho người lớn như thế nào là phù hợp? Tìm hiểu những kiến thức thủy liệu pháp ta sé rõ hơn điều này.

Tắm là một sinh hoạt vệ sinh thông thường, rất cần thiết trong đời sống.

Ta thường tắm theo nhu cầu sạch sẽ, theo thói quen với điều kiện sẵn có trong hoàn cảnh, nên đã xảy ra không ít tai biến do tắm như: choáng váng, ngất, rối loạn cơ năng tim mạch, tai biến mạch máu não, v.v...

Với sự hiểu biết qua sự học hỏi, tham quan, kiến tập chuyên khoa "Thuỷ liệu pháp" (nay thường gọi là thủy trị liệu) ở nước ngoài, với kinh nghiệm thực tế qua 4 năm thực hành ở bệnh viện Việt - Xô trước đây, chúng tôi xin giới thiệu một số kiến thức còn hạn chế để giúp các bạn tận hưởng sự bổ ích của các cách tắm, phòng tránh các tai biến của tắm, đặc biệt để phát huy tác dụng to lớn của "tắm hơi" (Sauna bath) đồng thời cũng để tránh những tác hại, nguy hiểm của nó.

(bác sĩ Nguyễn Hữu Hoàn)

I. NHIỆT ĐỘ CỦA NƯỚC TẮM TRONG Y HỌC

Tắm nước nóng - lạnh và tắm hơi có nhiều lợi ích, tuỳ theo mục đích, yêu cầu. Nhưng nó cũng có thể gây nhiều tác hại, nguy hiểm, nếu làm sai phương pháp, áp dụng không đúng đối tượng, không đúng bệnh.

Y học tiến tiến đã sử dụng các phương pháp tắm để điều trị và phục hồi chức năng có hiệu lực tốt đối với nhiều loại bệnh, đặc biệt đối với các loại bệnh thuộc về cơ năng thần kinh, các loại bệnh thuộc nguyên nhân cơ học.

Y học đã phân chia nhiệt độ của nước như sau:

- Lạnh dưới 20°

- Mát từ 20° đến 33°

- Trung hoà 34° - 35°

- Ấm 36° - 38°

- Nóng 39° - 41°

- Rất nóng từ 42° trở lên

 

Các con số đó rất gần nhau, nên khi tắm cần đo nhiệt độ nước bằng "nhiệt độ kế" cho chính xác.

Tác dụng của nhiệt độ của nước và thời gian tiếp xúc có ảnh hưởng đến sinh lý cơ thể. Cảm giác của da đối với nhiệt độ của nước, có thể thay đổi chút ít do thói quen cảm giác của cá nhân, tình trạng cơ thể lúc tiếp xúc với nước, là vừa nằm nghỉ hay vừa vận động cơ thể: Cùng một nhiệt độ, nhưng phương pháp tắm khác nhau như tắm ngâm cả người, tắm từng bộ phận, tắm dội nước, tắm bằng vòi hoa sen, thời gian tắm lâu hay mau, đều gây ảnh hưởng, tác dụng khác nhau.

Trong quá trình tắm với độ nước dù khác nhau đều là vật trung gian đưa những kích thích của nước vào da ở diện rộng hay hẹp và từ da, bằng những phản xạ phức tạp rất khác nhau đến hệ thần kinh trung ương và từ đây, gây những phản ứng kích thích khác nhau về mặt sinh vật học, hoá học cho từng bộ phận hay toàn thân.

II. CÁC PHẢN ỨNG KÍCH THÍCH TRONG CƠ THỂ  ĐỐI VỚI CÁC LOẠI TẮM

Các phản ứng kích thích trong cơ thể đối với các loại tắm hay phương pháp tắm rất phong phú và phức tạp. Nếu vận dụng đúng phù hợp với từng khả năng phản ứng của từng loại sức khoe, từng loại bệnh thì tác dụng của tắm rất tốt, không khác gì như cơ thể được xoa bóp đúng cách.

1. Tác dụng của phản ứng hoá học

Khi da được kích thích ở diện rộng; hẹp, tác dụng như da được xoa bóp, da sẽ tiết ra chất histamine (thán khí chuyển hoá thành) với liều lượng thích hợp, vào máu truyền đi toàn cơ thể, bổ ích như "kích phát tố"(biostimuline).

Khi da được kích thích, da còn tiết ra một chất, theo Pháp gọi là "hợp chất 4", theo Nhật gọi là E'sophylaxine, có tác dụng kích thích tuyến giáp và tuyến thượng thận, làm tăng chuyển hoá cơ bản, tăng sức đề kháng, đều là những yếu tố làm khoẻ người, giúp ích nhiều cho phòng bệnh và chữa bệnh, đúng như học thuyết của Claude Bernard (1813 - 1878) đã đề ra là: "lấy sức đề kháng của cơ thể để tự chữa bệnh".

Nước tắm Dao Đỏ là phương pháp thủy trị liệu độc đáo của đồng bào người

Dao Đỏ ở nước ta

2. Tác dụng của phản ứng nhiệt học - (nóng - lạnh)

a) Đối với lạnh

Lạnh tác động đến trung tâm điều hoà nhiệt, từ đó phát sinh ra kích thích tuyến thượng thận và giáp trạng để tiết ra adre'naline (cường giao cảm),Thyroxine, làm tăng chuyển hoá ở các cơ vân - gan, đốt nhiều đường mỡ, làm tăng thân nhiệt, nếu các chất kia hết thì sẽ sử dụng cả đến chất protein.

+ Lạnh tại chỗ: Làm tim đập chậm lại, giãn rộng ra, bóp mạnh hơn, thay được thuốc cường cơ tim: adrenaline, ouabaine.

+ Rất lạnh:

Vài giây: Kích thích

Lâu hơn: Giảm kích thích

Lâu hơn nữa: Ức chế hoàn toàn

Không bao giờ phản ứng cùng một hướng, tăng theo tỷ lệ với cường độ về thời gian kích thích.

b) Đối với nhiệt

Cơ thể phản ứng với sự thay đổi về nhiệt độ của ngoại giới rất phức tạp và thường xuyên.

Những điểm đã được thống nhất là:

+ Cường độ kích thích của nhiệt: Do khả năng truyền nhiệt của vật trung gian, do đó mà cơ thể thu nhiệt hoặc mất nhiệt độ.

+ Phản ứng xuất hiện mạnh theo sự tăng hay giảm nhiệt (cả hai chiều) so với thân nhiệt 37°

- Phản ứng: 38° - 39° - 40° tăng lên dần.

- Cũng như 36 - 35° - 34° phản ứng cũng tăng lên dần.

+ Cách áp dụng nhiệt cũng có ảnh hưởng lớn:

- Tăng giảm từ từ thì phản ứng nhẹ

- Đột ngột thì phản ứng mạnh

Thí dụ:

1. Ngâm ngay tay vào 38° làm co mạch, xong dãn mạch mạnh và nhanh.

2. Ngâm từ 36° - 37° - 38° (tăng lên dần từng độ) thì không có co mạch, mà chỉ có dãn mạch, đỏ da (áp dụng vào tắm ngâm người huyết áp cao)

3. Phản ứng càng mạnh, nếu bề mặt của da được tác động càng rộng:

- Ngâm một tay nóng ít.

- Ngâm cả người nóng nhiều.

3. Tác động cơ giới

Ngâm trong nước, có sức ép của nước đè trên da.

- Nếu ta tăng sức ép lên cao, có thể làm thay đổi phản ứng của cơ thể bình thường đối với nhiệt.

4. Kích thích hoá học

Nước thường không có hoá chất, nên kích thích không đáng kể.

Khi pha thêm các hoá chất, tác dụng của hoá chất trở thành quan trọng. Tuỳ từng chất và mục đích đề ra, cần pha nhiều hay ít.

Thí dụ:

CO2 và SH2 pha với nước 35° hay thấp hơn, sẽ làm cho da trở thành đỏ rất nhanh như ngâm với nước 42° C.

Các thứ hoá chất thường dùng là: Thuốc, hơi CO2, SH2, muối bếp ClNa, các hương thơm.

Có thể thay đổi tuỳ theo ý định. Tác dụng của 3 loại kích thích trên.

Nhưng trong thuỷ liệu pháp, thông thường và trọng nhất là tác dụng của nhiệt, vì vậy có nhiều người gọi "thuỷ liệu pháp" là "nhiệt thuỷ liệu pháp".

5. Cách điều hoà của cơ thể

Cơ thể phản ứng với sự thay đổi về nhiệt độ của ngoại giới, rất phức tạp và thường xuyên. Những điểm đã được thống nhất là:

a) Cường độ kích thích của nhiệt.

Do khả năng truyền nhiệt của vật trung gian, mà cơ thể thu nhiệt hoặc mất nhiệt độ.

b) Phản ứng xuất hiện mạnh theo với sự tăng hay giảm nhiệt (cả hai chiều):

c) Phản ứng càng mạnh, nếu bề mặt tác dụng của nhiệt độ càng rộng

- Ngâm tay nóng ít.

- Ngâm cả người nóng nhiều

d) Không bao giờ phản ứng cùng một hướng tăng theo tỷ lệ với cường độ và thời gian kích thích

Thí dụ:

1. Ngâm lạnh thì co mạch, da tái.

2. Nếu tiếp tục thì dãn mạch, (không co thêm nữa)

3. Nếu tiếp tục nữa thì co tĩnh mạch, da tái lại

4. Tắm nước lạnh, dưới 2 - 3 at - mốt - phe thì da đỏ hồng vì xung huyết.

e) Kích thích cùng một cường độ nhắc đi nhắc lại nhiều lần, sẽ giảm tác dụng đi

6. Cách điều hoà thân nhiệt:

a) Bằng nhiệt

Kích thích các đoạn cùng thần kinh cảm giác và giao cảm, cũng như làm cho da tiết ra histamine và nhiều chất khác bị kích thích. Các kích thích đó trực tiếp và gián tiếp gây nên các phản xạ bằng đường thần kinh, giác quan, nội tiết, đi đến trung tâm điều hoà thân nhiệt là trung não (mésencéphale). Từ đó, lại phát ra các kích thích đi các cơ quan trong toàn thân để điều hoà thân nhiệt.

Trong quá trình đó, ta thấy có sự tham gia của:

- Thần kinh ngoại vi (cảm giác và giao cảm) của vỏ đại não (tính chất phản xạ cơ, điều kiện của các phản ứng rất rõ).

+ Khi bị nóng: Cơ thể sẽ giảm sức sản xuất nhiệt (mức nhiều nhất là 8.10%, nếu cơ thể nghỉ hoàn toàn).

- Các mạch dãn rộng để toả bớt nhiệt bằng mặt da.

- Ra mồ hôi và giảm chuyển hoá xuống.

+ Khi bị lạnh:

Kích thích do đường thần kinh và do máu bị lạnh ở ngoài đến trung tâm điều hoà nhiệt, từ đó phát sinh ra kích thích đến tuyến thượng thận và giáp trạng để tiết ra adrénaline và thyroxine. Các chất này làm tăng chuyển hoá ở các cơ vân, gan đốt nhiều đường mỡ, làm tăng thân nhiệt. Khi các chất kia hết, thì sử dụng đến các chất đạm.

Trường hợp da bị lạnh thì sinh co mạch, tuần hoàn giảm, làm cho máu đến ít, bớt mất nhiệt của cơ thể. Nếu lạnh lâu, nhiệt độ của da bị hạ thấp, thì lại dãn mạch, máu đến nhiều, làm đỏ da dể bảo vệ sức sống của da.

b) Việc điều hoà thân nhiệt trong khi tắm có liên quan đến một số yếu tố sau

+ Những môi trường truyền nhiệt: không khí khô hay ẩm hơi nước nóng.

Do đó, sự truyền nhiệt có khác nhau về những chi tiết quan trọng.

- Phản ứng của cá nhân bệnh nhân.

- Tình hình tại chỗ áp nóng hay lạnh.

+ Áp nóng thì dãn mạch, nhiệt bị máu mang đi ngay, cho nên không vào sâu được.

+ Ở môi trường nóng, cơ thể sẽ ra mồ hôi, có thể kéo dài từ 30 phút đến 90 phút. Trong khi đó, bệnh nhân thấy khát, uống nước vào thì dễ chịu ngay. Sau 2 giờ 30' thì bộ máy điều hoà thân nhiệt có hiện tượng mệt mỏi, mồ hôi giảm dần, thân nhiệt tăng, người khó chịu, nặng nề. Do đó, khi muốn cho ra nhiều mồ hôi, không thể kéo dài quá được. Đối với người khoẻ, sau khi tắm nóng ra cần nghỉ chừng 30 phút thì những rối loạn nói trên sẽ được điều hoà.

Trái lại, khi áp lạnh vào sâu thì sẽ làm co mạch và thiếu máu tại chỗ, giúp cho việc giữ lạnh.

7. Tác dụng sinh lý của tắm nóng

Qua những vấn đề trên, ta thấy rõ:

a) Tác dụng trên da

Là nơi có nhiều mạch máu (chứa 30% toàn bộ lượng máu) và thần kinh, khả dĩ dùng là để kích thích phủ tạng và tăng cường chuyển hoá toàn thân, kích thích các tuyến nội tiết, 60 - 70% thân nhiệt toả ra bằng da, có thể dùng để hạ nhiệt độ, ảnh hưởng đến toàn thân.

Làm ra mồ hôi nhiều, có thể ảnh hưởng đến chuyển hoá chất nước, đào thải chất cặn bã, tiêu các tràn dịch, bài tiết các chất độc.

b) Ảnh hưởng trên tim mạch

- Ảnh hưởng trên mạch:

Nóng, lạnh có tác động rõ ràng trên các mạch của da. Từ đó có thể ảnh hưởng đến các mạch ở sâu trong cơ thể. Các ảnh hưởng đó được quy lại trong các định luật dưới đây:

+ Khi nhiệt tác động ở một bên nửa người, thì vùng đối xứng ở nửa người bên kia cũng phản ứng tương tự.

+ Khi nào ở mặt da co mạch, thì trong phủ tạng có dãn mạch và trái lại (luật Dastre - Morat).

Trong một số trường hợp, có một số bộ phận không theo định luật này.

- Ngâm chân nước nóng sẽ làm giảm máu ở não và hạ bộ.

- Thân co mạch khi ngoài da bị lạnh

Kirichinsky bổ sung như sau: "Khi kích thích tại chỗ bằng nhiệt trên một vùng da gây nên xung huyết thì ở bộ phận sâu cùng do một đoạn tuỷ đảm nhiệm về thần kinh có phản ứng xung huyết như ngoài da, còn các bộ phận không cùng đoạn tuỷ đó phản ứng ngược lại".

Nói một cách khác: "Bộ phận sâu sẽ phản ứng như da cùng thần kinh của đoạn tuỷ đó và sẽ phản ứng ngược nếu khác đoạn tuỷ".

Phản ứng của da và mạch, tuy là một phản ứng phức tạp, có nhiều yếu tố không biết được rõ ràng, song rất quan trọng vì nó có thể trực tiếp xem xét được.

Nó là phản ứng chính dùng trong "thuỷ liệu pháp" để đánh giá phản ứng của cơ thể.

Anh hưởng trên tim:

+ Tại chỗ:

- Lạnh: Làm tim đập chậm lại, dãn rộng ra, co bóp mạnh. Có thể dùng thay thuốc cường cơ tim (adrénaline - ouabaine).

- Nóng: Làm cho tim đập nhanh, nếu nóng vừa phải làm tim đập mạnh hơn (như tác dụng của caféine). Nếu nóng quá lâu và nhiều, sẽ làm dãn tim và yếu đi.

+ Toàn thân:

- Lạnh (ngâm) tim đập chậm lại, huyết áp tăng.

- Nóng (ngâm) tim đập nhanh, huyết áp hạ. Nhưng nếu ở trên 30° thì huyết áp lại tăng, do nhu cầu tuần hoàn tăng, vì dãn mạch, tim mệt mỏi.

Tóm lại:

Khi ở nhiệt độ trung hoà, tim không thay đổi, da ít bị kích thích, cơ thể hầu như nghỉ.

Lạnh: Kích thích tim mạch.

Nóng và rất nóng: Tim phải làm việc nhiều như khi làm việc nặng.

c) Tác dụng trên thần kinh

- Rất lạnh:

+ Dùng trong vài giây: Kích thích

+ Dùng lâu hơn: Giảm kích thích

+ Dùng lâu hơn nữa: Hoàn toàn ức chế

- Nóng:

+ Cũng tương tự như lạnh

Thí dụ:

- Khi sốt mê man, nói sảng, đắp nước lạnh lên mặt, ảnh hưởng đến thần kinh, vỏ não, do đó thở sâu rồi tỉnh dần.

- Dội nước hay đổ nước vào cổ, ngực, lưng bất thình lình dẫn đến phản xạ ngưng thở, sau đó thở vào thật sâu.

- Ngâm chân trong nước nóng, ảnh hưởng đến tuần hoàn, buồng trứng, tử cung co lại. Gầy làm bo của inh môi

- Đối với toàn thân, chúng ta thấy rõ tác dụng an thần của tắm, ngâm nước nóng trên nhiệt độ trung hoà 1 – 2 độ, cũng như tác dụng kích thích mạnh của nước rất nóng 44°.

* So sánh với thuốc

Lạnh tác dụng như adrénaline

Nóng tác dụng như choline, pilocarpine

d) Tác dụng trên các cơ:

- Lạnh tại chỗ và ngắn: Tăng kích thích làm người khoẻ và giảm mệt, nhất là sau đó xoa bóp và tắm vòi...

- Lạnh toàn thân và ngắn: Giảm mệt, tăng sự hoạt động.

- Lạnh để lâu và mạnh hơn: Dùng tại chỗ thì các cơ bị co cứng, vận động khó khăn, co thắt có sẵn càng tăng, hiện tượng co thắt đã mất có thể trở lại.

- Nhiệt độ trung hoà: Không có tác dụng trên cơ, trừ trường hợp dùng rất lâu thì sức cơ mới yếu đi. Nhưng sau đó, có xoa bóp và tắm vòi thì cường cơ trở lại bình thường.

- Nóng và rất nóng:

+ Dùng nhanh: Tăng sức mạnh của cơ, giảm mệt nhọc

+ Dùng lâu: Giảm kích thích, làm cơ yếu đi (nếu xoa bóp thì như thường)

e) Tác dụng trên máu:

Chưa được xác định rõ nhưng hiện tượng tăng hồng cầu, bạch cầu, huyết sắc tố, tăng tỷ lệ, độ quánh khi nhiệt độ cao, không phải là do ảnh hưởng trực tiếp của nóng trên máu, hay hệ thống sinh máu mà do sự phân phối máu trên cơ thể trong lúc đó.

Những điểm đã tìm được chắc chắn là:

Nóng nhiều, ra mồ hôi nhiều, làm máu tạm thời đặc lại.

+ Lạnh quá: Có hiện tượng tăng hồng cầu.

Trong việc sản xuất các kháng thể, các kháng độc rất phức tạp.

Nói chung: nóng làm tăng, lạnh làm giảm.

f) Tác dụng trên hô hấp:

- Mạnh trên phản xạ hô hấp.

- Nếu tác động bất thình lình trên toàn thân, hoặc tại chỗ ở cổ và ngực, nóng và lạnh có tác dụng giống nhau. Thở mạnh, sâu và sau đó ngừng lại một chút theo thở sâu và nhanh. Thở có ảnh hưởng đến tuần hoàn.

+ Khi hít vào thì hút máu ở đường tĩnh mạch về phía tim.

+ Khi thở ra, giúp cho đẩy máu đi.

Không khí thay đổi nhiều hơn khi thở sâu và mạnh.

g) Tác dụng trên chuyển hoá

Có thể tóm tắt như sau:

Nóng:

Làm tăng cường quá trình ô xy hoá và như vậy làm tăng cường chuyển hoá nói chung.

- Lạnh:

Có tác dụng ngược lại.

Nhiệt độ bên ngoài thay đổi thì ảnh hưởng đến nhiệt độ bên trong cơ thể và ảnh hưởng đến chuyển hoá.

Chuyển hoá thay đổi, ảnh hưởng lại đến nhiệt độ cơ thể.

* Trong trường hợp điều trị bằng nước

Các phương pháp dùng nhiệt độ trung hoà (34° - 35°- 36°) ảnh hưởng ít đến người bình thường. Đối với người yếu, hoặc đối với người vừa đau ốm mới khỏi dậy, có ảnh

hưởng tốt, làm chóng lên cân, phục hồi sức khoẻ (với điều kiện cho ăn đủ chất).

- Các phương pháp lạnh (nhiều hoặc ít) làm tăng sự tiêu hoá chất đường và mỡ trong khi tác dụng. Khi thôi thì hết ngay.

Các phương pháp lạnh có tác dụng tốt trên những người béo muốn gầy và trên những người muốn lên cân do:

+ Sự kích thích toàn thân làm cho người ưa hoạt động (đi chơi, thể dục, thể thao...) làm cho chuyển hoá tăng-

+ Ảnh hưởng gián tiếp trên tuần hoàn và hô hấp được kích thích nhanh và đều, quan trọng nhất là ảnh hưởng trên sự hấp thụ các chất bổ của tế bào.

* Các phương pháp nóng:

- Nóng vừa phải: Hơi làm giảm chuyển hoá

- Rất nóng: Làm tăng chuyển hoá, đốt mỡ và đường.

Nóng nhiều làm ra mồ hôi nhiều, ảnh hưởng đến tỷ lệ nước trong cơ thể, làm các chất protid bị phân hoá tăng (thành ure, acid amin...) vì vậy dùng trong bệnh goutte.

Các muối khoáng (ClNa) bị mất đi, làm thay đổi tỷ lệ muối khoáng trong máu, ảnh hưởng đến áp lực thẩm thấu của tế bào. Mất ClNa, còn có thể gây ra một sự mất thăng bằng của chất muối khoáng (thí dụ như Na giảm thì K tương đối tăng).

h) Tác dụng trên chức phận bài tiết:

Các kết quả cụ thể nhất của phương pháp tắm bằng nước và tăng nhiệt là: Ra mồ hôi và bài tiết của thận.

- Mồ hôi:

Ra nhiều, ít do:

+ Mức nhiệt cao thấp

+ Khả năng phản ứng của cơ thể. Trung bình 1-2 lít, có khi hơn trong 1 lần tắm.

Về mặt thực hành, có những điều quan trọng như sau:

- Các phương pháp nóng làm ra ra mồ hôi, không giống nhau.

+ Nhiều: Ngâm nước nóng, tắm hơi, không khí khô, cát...

+ Mỗi phương pháp có một nhiệt độ làm ra nhiều mồ hôi nhất.

+ Nước: 40° Hơi 42°

+Ánh sáng 50 - 60°.

+ Không khí 60 - 70°.

Cao hơn nữa, mồ hôi giảm đi (không khí nóng 80° → hết mồ hôi).

Nếu liên tiếp làm luôn thì mồ hôi có thể ngày càng ra nhiều.

+ Khi tác dụng tại chỗ, vẫn có thể ra mồ hôi toàn thân.

+ Từng người có những đặc điểm riêng biệt, rõ ràng

Thí dụ: Cũng một nhiệt độ.

+ Người ra mồ hôi nhiều, người ra ít

+ Người ra mồ hôi tay, chân nhiều, người ở mặt.

Tác dụng cơ giới làm tăng thêm chức phận ra mồ hôi của da (xoa bóp, áp lực nước...).

- Ra mồ hôi có ý nghĩa quan trọng đối với cơ thể.

+ Điều hoà thân nhiệt

 + Bài tiết các chất chuyển hoá

+ Thay đổi sự thăng bằng nước trong cơ thể.

+ Tăng cường sự tiêu trừ các chất tràn dịch, tụ máu, nề phù, v.v... và các tổ chức xơ sẹo.

- Bài tiết của thận:

Bị nhiệt, ảnh hưởng nhiều.

+ Dùng tại chỗ: ở vùng thận, và toàn thân, có ảnh hưởng đến cả các mạch máu thận, tương tự như đối với da.

(Thận và da: Cùng một tổ chức estrodenes)

+ Ra mồ hôi có ảnh hưởng đến bài tiết nước tiểu:

Tắm thật lạnh (chỉ trong 1 phút) thì thấy số lượng nước tiểu bài tiết giảm hẳn.

Nếu cho 40°: Bài tiết nước tiểu tăng.

Nếu tắm rất nóng toàn thân và thật lâu: Nước tiểu bị giảm tạm thời vì huyết áp tăng và mồ hôi ra nhiều: Dẫn đến giảm nước cơ thể.

Dùng lạnh lâu hơn trường hợp thứ nhất dẫn tới huyết áp và đi tiểu tăng tạm thời.

Đáng chú ý là: Những phương pháp thuỷ nhiệt trong vòng 24 giờ không làm thay đổi lượng nước tiểu (có hay không cũng vậy). Nhưng khi thấy bài tiết nước tiểu mà tăng (lúc điều trị) thì số lượng các chất nước tăng. Điều đó chứng tỏ có sự kích thích chức phận của thận.

Khi làm lạnh đột ngột, trong nước tiểu có thể có albumine nhưng không có thay đổi về tế bào tổ chức thận.

Nếu có thương tổn tiềm tàng tức là có thay đổi giải phẫu bệnh lý rõ.


(*) Xem thêm

Bình luận
  • Đánh giá của bạn
Đã thêm vào giỏ hàng