Những cánh đồng kim cương
Bài diễn văn Hàng mẫu kim cương của Russell Conwell đã được tác giả của nó diễn trên 5700 lần, nghĩa là cứ mỗi ngày diễn một lần thì cũng phải mất trên 15 năm. R.H. Conwell đã nhờ nó mà thu được hàng triệu Mỹ kim và giúp được trên 3000 sinh viên đại học. Đây là bài văn được diễn thuyết nhiều lần nhất trên thế giới, Mời các bạn cùng tham khảo nhé!
NHỮNG CÁNH ĐỒNG KIM CƯƠNG
Russell Conwell
Cách dịch khác: HÀNG MẪU KIM CƯƠNG
Nguyên văn: ACRES OF DIAMONDS
Năm 1870 chúng ta xuôi dòng sông Tigre, tới Bagdad, chúng tôi đã mướn một người để dắt đi coi Persépolis, Ninive, Babylone và tất cả những miền có di tích ở Assyrie, cho tới vịnh Ba-Tư. Người hướng đạo biết rõ những nơi đó lắm, nhưng vào hạng lém lỉnh, thích làm vui khách du lịch, y như một anh hớt tóc kể chuyện cho bạn quên rát đi khi cạo mặt cho bạn vậy. Y kể nhiều quá, đến nỗi tôi phát chán, không thèm nghe nữa và ngó chỗ khác mỗi khi y bắt đầu nói, thấy vậy y giận lắm.
Tôi nhớ một buổi tối, y thình lình lột nón của y rồi đưa lên trời. Tôi không hiểu cử động đó là ý gì, mà không dám nhìn, sợ lại thành nạn nhân của y, nghĩa là phải nghe một câu chuyện nữa. Nhưng mặc dầu không có tánh tò mò của đàn bà, tôi cũng phải quay lại ngó y và tức thì y bắt đầu kể. Y nói: "Tôi cho ông nghe câu chuyện này mà tôi dành riêng cho các bạn thân của tôi". Thấy mình được đặt vào hàng bạn thân, tôi chăm chú nghe và sau này tôi không bao giờ ân hận là đã nghe hết.
Y nói hồi xưa, một ông già Ba-Tư tên là Al Hafed, ở gần sông Indus, trong một trại lớn lắm, có vườn, có ruộng. Ông ta mãn nguyện và giàu có, mãn nguyện vì giàu có và giàu có vì mãn nguyện. Một hôm một vị giáo sĩ lại thăm ông và ngồi bên cạnh lò sưởi, giảng cho ông nghe nguyên thủy của thế giới này.
Vị giáo sĩ nói: thế giới mới đầu là một đám sương mù, điều đó, khoa học nhận là đúng, đức Thượng Đế đưa ngón tay quay trong đám sương ấy, mới đầu quay chậm rồi mỗi lúc mỗi nhanh, sau đám sương biến ra một khối lửa lăn trong vũ trụ, xuyên qua các đám sương mù khác, vì vậy mà sương chung quanh hóa ra nước rồi đổ xuống thành mưa trên khối lửa. Lớp ở ngoài lạnh, bèn đông lại thành vỏ cứng. Lửa ở trong làm nứt lớp vỏ, do đó thế giới kỳ dị chúng ta đương ở đây mới có đồi núi, thung lũng. Những chất chảy ở trong phun ra ngoài, nếu gặp lạnh mà đặc lại rất nhanh thì sinh ra đá hoa cương, nếu lạnh lại chậm hơn thi sinh ra bạc, chậm hơn nữa thì là vàng sau cùng thì là kim cương. Vị giáo sĩ nói: "Một viên kim cương tức là một giọt mặt trời đông lại" .
Điều đó theo khoa học cũng đúng nữa. Hết thảy các bạn đều biết rằng kim cương là nguyên tố trong sạch, tức là mặt trời đông lại chứ gì?
Thảo dược ngâm chân của người Dao Đỏ (dành cho người cao huyết áp)
Vị giáo sĩ còn nói điều này mà tôi muốn nhớ hoài: "Kim cương là khoáng vật cuối cùng và quý báu nhất do Thượng Đế tạo nên, cũng như đàn bà là sinh vật cuối cùng và cao quý nhất trong vũ trụ. Tôi cho chính vì lẽ đó mà kim cương và phụ nữ thích lẫn nhau".
Vị giáo sĩ lại nói với Al Hafed rằng nếu ông này có một nắm kim cương thì có thể mua được cả một nước và nếu có một mỏ kim cương thì có thể mua được ngai vàng cho hết thảy con cái ông ta vì thế lực của kim tiền rất lớn.
Ông già chăm chú nghe, biết được cái quý giá của kim cương và khi đi ngủ, bỗng thấy mình nghèo và ông không mãn nguyện nữa và không mãn nguyện vì ông tưởng là ông nghèo. Ông tự nhủ: "Ta muốn có một mỏ kim cương". Thành thử, ông thao thức suốt đêm và sáng sớm ông đi kiếm vị giáo sĩ. Kinh nghiệm cho tôi biết rằng vị giáo sĩ bị ai đánh thức dậy sớm thì luôn luôn quạu quọ. Ông già lại phá tan giấc điệp của nhà tu hành và hỏi :
- Ở đâu có kim cương, xin giáo sĩ chỉ giùm tôi.
- Tìm kim cương làm gì?
- Tôi muốn giàu, giàu vĩ đại mà không biết kiếm đâu được kim cương.
- Đi kiếm con sông nào chảy giữa hai dãy núi cao, mà lòng sông là cát trắng thì chú sẽ thấy kim cương ở trong lớp cát đó.
- Giáo sĩ có tin rằng có một con sông như vậy không?
- Thiếu gì. Kiếm thì sẽ thấy.
- Tôi sẽ kiếm.
Và ông già bán trại, thu thập công nợ, nhờ hàng xóm trông nom vợ con rồi đi tìm kim cương. Theo tôi, có lẽ mới đầu ông đi tìm ở dãy núi Mặt trăng rồi mới đi vòng lại Palestine, qua châu Âu và sau cùng, hết tiền, quần áo rách rưới, ông ngừng lại ở vịnh Barcelone, bên I Pha Nho, nhằm lúc nghịch triều dâng lên, đập vào những cột. Hercules. Ông giả đau lòng quá, không chống cự nổi với ý muốn quyên sinh, bèn đâm xuống làn sóng đầy bọt và chìm luôn.
Kể xong câu chuyện buồn đó, người hướng đạo già ngừng con lạc đà tôi đương cưỡi lại, đi lấy hành lý đem buộc vào một con lạc đà khác. Tôi nhớ lúc đó tội tự nhủ: "Tại sao y lại dành câu chuyện đó cho các bạn thân của y? Câu chuyện có vẻ không đầu không đuôi gì cả. Mới có một chương mà vai chính đã chết rồi, từ trước tới chưa bao giờ nghe hay đọc một chuyện vô nghĩa như vậy".
Nhưng khi y trở lại, nắm giây buộc cổ con lạc đà của tôi, y kể tiếp :
Người mua lại trại của Al Hafed một hôm dắt lạc đà vào vườn cho nó uống nước và khi con vật cúi xuống thì anh ta thấy có cái gì lấp lánh trong dòng suối nông và đầy cát. Anh vớt lên được một viên đá đen trong đó có một miếng tròn như con ngươi, lóng lánh chiếu đủ các màu của cầu vồng. Anh ta mang hòn đá kỳ dị ấy về nhà, đặt trên lò sưởi rồi lại làm việc, quên hắn chuyện ấy đi.
Ít bữa sau, chính vị giáo sĩ đã kể chuyện kim cương cho Al Hafed nghe, lại trại thăm người chủ mới, thấy viên đá lấp lánh trên lò sưởi, vội vàng đứng dậy, hỏi:
- Một viên kim cương! Một viên kim cương! Al Hafed đã về rồi sao?
- Không. Không, Al Hafed chưa về. Đó không phải là kim cương, chỉ là một viên đá thường thôi, chúng tôi lượm được ngay trong vườn đây.
- Lão không lầm đâu mà. Chính kim cương đây. Rồi cả hai chạy ra vườn, lấy tay cào cát lên, và thấy những viên kim cương khác đẹp hơn, quý hơn viên trước, và tên hưởng đạo nói nhờ vậy, họ kiếm được mỏ kim cương ở Golcouda, một mỏ nhiều kim cương nhất từ trước tới nay, hơn cả mỏ Kimberly nữa.
Viên kim cương lớn tên là Rohjuoor của Anh Hoàng và một viên khác, lớn nhất thế giới, của Nga Hoàng, đều đào được ở mà Golconda ấy.
Sau khi kể xong câu chuyện lạ lùng đó, tên hướng đạo lại lột chiếc nón, quay tròn trong không khí, để bắt tôi chú ý tới luân lý trong câu chuyện. Tụi hướng đạo A rập kể chuyện nào cũng thêm phần luân lý, mặc dầu có nhiều chuyện không luân lý chút nào cả. Y nói: "Nếu Al Hafed cứ ở nhà mà cuốc vườn của y lên thì chẳng nhưng khỏi phải rách rưới, đói khát rồi chết ở tha hương mà lại kiếm được "hàng mẫu kim cương" nữa, vì sau này người ta thấy mỗi mẫu đất, mỗi leng đất trong trại đều chứa những viên kim cương mà các vị vua chúa mua về dát mũ, miện.
Nghe xong phần luận lý rồi tôi hiểu lẽ tại sao y dành câu chuyện ấy cho "bạn thân" của y. Y không dám nói thẳng ra, phải dùng cái lối nói quanh co như các vị luật sư để gián tiếp khuyên tôi rằng thời đó mà đi chơi trên dòng sông Tigre thì thà ở nhà còn hơn. Vì vậy tôi không cho y biết rằng tôi đã hiểu câu chuyện; đối với những tên Ả rập tôi phải giữ miệng.
Nước tắm thảo dược người Dao Đỏ dành cho em bé DaodoBaby trị rôm sảy, mụn nhọt cho bé, giúp giữ ấm cơ thể và bé ngủ ngon giấc hơn
Tôi bảo y câu chuyện đó làm tôi nhớ một chuyện khác và tôi vội vàng kể cho y nghe chuyện một người chủ trại ở California:
Năm 1847, người ấy đọc báo thấy rằng có kẻ mới kiếm được vàng ở miền nam California, bèn bán trại cho đại tá Sutter và đi tìm vàng. Đại tá đặt một máy xay trên suối nhỏ trong trại và một hôm đứa con gái nhỏ của ông đem về một chút cát ướt dính trong then máy xay rồi đặt gần lửa để hơ nó. Cát chảy qua kẽ tay đứa bé và dính nhiều mảnh vàng. Đó là những mảnh vàng đầu tiên kiếm được ở California, còn người đi kiểm vàng thì đi luôn, không bao giờ trở về nữa.
Cách đây non hai năm, tôi kể lại chuyện đó trong một cuộc diễn thuyết ở California, ngay bên cạnh trại ấy và người ta cho tôi hay rằng mỏ vẫn còn vàng. Một người làm chủ một phần ba khu đất; suốt mấy năm vừa rồi cứ mỗi 15 phút, ngày cũng như đêm đào được 20 Mỹ kim vàng. Các bạn và tôi nếu được một số lợi tức như vậy thì sướng biết bao nhỉ ?
Nhưng câu chuyện ở Pennsylvania mới hay hơn.
Một người có trại muốn bán trại đi. Tôi ở vào địa vị họ thì cũng làm vậy. Nhưng ông ta không điên khùng như nhiều kẻ khác, chưa kiếm được việc mới mà đã bỏ việc cũ đâu! Cho nên ông ta viết thơ xin người anh họ cho một chân giúp việc trong công cuộc đào dầu ở Canada. Người này trả lời không thể mướm ông ta được vì ông ta không biết chút gì về việc đào mỏ dầu lửa hết. Ông ta nói: "Không sao! Để tôi học" và bắt đầu học, học về những thảo mộc từ hồi khai thiên lập địa cho tới khi nó biến thành dầu lửa thắp được. Cái gì nghiên cứu cũng kỹ hết. Sau cùng ông ta viết thư cho anh họ, nói: "Bây giờ tôi biết việc rồi". Người anh họ nhận lời và mời tới.
Ông ta bán trại được 833 Mỹ kim, vừa ra khỏi cửa thì người chủ mới đi thu xếp chỗ uống nước cho đàn bò và thấy đâu đó ngăn nắp lắm. Có một dòng suối chảy từ trên đồi xuống và người chủ cũ bắc một tấm ván ngang dòng, hơi xeo xéo, dưới mặt nước độ vài phân, để cho nước đổ về bờ và nổi bọt lên, đàn bò thấy vậy, không uống ở phía trên mà sẽ uống ở phía dưới tấm ván. Thành thử trong 23 năm trời, người chủ củ đã lội trong một suối dầu lửa mà không hay, để rồi bỏ đi tìm dầu lửa ở Canada. Mà suối dầu đó, các nhà địa chất học ở Penn- sylvania năm 1870 định giá là 100 triệu Mỹ kim.
Ở ngay trại đó bay giờ là chân thành Titusville; nhưng giếng dầu ở Pleasantville vẫn chưa cạn và người chủ trại mất công nghiên cứu sự cấu tạo của dầu lửa từ hồi khai thiên lập địa tới nay, đã đem bán trại đó lấy 883 Mỹ kim chẳn. Có vô lý không chứ!"
Nhưng tôi phải kể thêm một chuyện nữa, lần này ở Massachusetts. Chính là tại quê hương của tôi, mới buồn cho chứ!
Người thanh niên trong chuyện bỏ xứ sở quê hương, lại học ở trường đại học Yale về khoa hầm mỏ. Trong năm học cuối cùng, người ta trả cho chàng 15 Mỹ kim mỗi tuần để giảng lại bài về khoáng chất học cho những sinh viên còn kém. Tự nhiên là chàng vẫn tiếp tục học, chỉ giảng ngoài giờ học của chàng thôi. Thi đậu rồi, chàng được người ta cho một ghế giáo sư, lương 45 Mỹ kim mỗi tuần. Chàng đi thẳng về nha, nói với mẹ : "Thưa má, 45 Mỹ kim một tuần con không chịu làm đâu. Có đầu óc như con, lãnh 45 Mỹ kim mỗi tuần mà làm gì? Má con mình đi California khai khẩn mỏ vàng và chúng ta sẽ giàu cỏ vĩ đại ". Bà mẹ nói: "Ở đây sung sướng là đủ rồi, giàu có chắc gi đã vui hơn".
Nhưng chàng là con một, muốn sao được nấy - hạng con một luôn luôn như vậy. Họ bèn bán đất cát nhà cửa ở Massachusetts và tới Wisconsin, chàng vô làm Công ty tìm vàng. Vì nhân viên trong công ty đông quá, không ai để ý tới chàng hết, chàng lãnh mỗi tuần 15 Mỹ kim, và công ty hứa chia lời cho chàng nếu chàng may mắn kiếm được mỏ đồng.
Thảo dược ngâm chân của người Dao Đỏ (Loại dùng cho người đau nhức xương khớp, tê mỏi chân tay)
Tôi không tin rằng chàng kiếm được, điều đó tôi không biết chắc, nhưng tôi không tin như vậy. Điều tôi biết chắc là chàng vừa ra đi thì người mua đất đào khoai tây, mang về một thúng lớn. Cổng nhỏ, thúng mắc kẹt trong cổng, người đó phải đặt thúng xuống đất rồi đẩy bên đây một cái, đẩy bên kia một cái. Trong khi đẩy, người ấy ngó thấy phiến đá ở lớp trên, gần cổng, có một cục bạc thiên nhiên, bề mặt chừng 20 phân vuông.
Vị giáo sư về hầm mỏ đã ngồi trên phiến đá ấy để tính giá bán trại với người chủ sau. Chàng sinh trưởng nơi ấy; biết bao lần đi qua đi lại trên cục bạc. Có khi cục bạc chạm vào cổ tay áo chàng như muốn nói: "Này, này cả 100 ngàn Mỹ kim đây này, sao không cầm lấy?". Nhưng chàng không thèm ngó.
Chàng chỉ nghĩ ở miền xa lắm kia mới có bạc chứ ở Newburyport này thì làm gì có được ? Ở miền nào, tôi không biết. Mà chàng là một giáo sư về khoáng chất học đấy.
Tôi muốn để cả đêm nay kể cho các bạn nghe hết những chuyện như vậy... Nhưng kể ra thì mất vui vì các bạn và tôi chung ta đều lầm lỡ như vậy hết. 90 phần trăm những bạn trong phòng nảy đều lầm lỡ ngay hôm nay này.
♦♦♦♦♦♦
♦♦♦
♦
Tôi nói rằng các bạn có bổn phận phải làm giàu, không có quyền được nghèo. Sống ở Philadelphia mà không giàu thì thiệt là rủi, rủi tới 2 lần lận vì làm giàu dễ lắm, dễ như muốn nghèo vậy. Ở Philadelphia này có biết bao cơ hội! Bạn phải giàu. Nhiều bạn có những thành kiến vững chắc như thành kiến về tôn giáo, sẽ hỏi tôi:
"Tại sao ông dám khuyên cái thế hệ đương lớn lên này có cái óc con buôn, suốt đời lo kiếm tiền, bạc đồng và bạc cắc ?"
Nhưng tối vẫn nhắc rằng bạn phải dùng thì giờ để làm giàu. Chúng ta đều biết rằng có những cái quý hơn tiền, điều đó tự nhiên rồi. Trông nấm mồ lạnh lẽo trên đó lá vàng rơi lác đác, lòng tôi buồn vô hạn và hiểu rằng có những cái cao cả hơn, tôn quý hơn tiền bạc. Kẻ nào đã đau khổ, đều thấy có những cái êm đềm hơn, tinh khiết hơn, thiêng liêng hơn kim tiền. Nhưng ai có lương tri cũng phải nhận rằng hết thảy những cái cao quý thiêng liêng ấy phải nhờ thế lực của kim tiền mới đẹp đẽ hơn lên bội phần.
Ái tình là vật lớn lao nhất đời nhưng kẻ si tình nào có nhiều tiền thì mới thật là sung sướng. Tiền của là sức mạnh. Có tiền làm gì cũng được. Và hễ nói: “Tôi không cần dùng tiền", tức là nói: "Tôi không muốn làm việc thiện".
Nói như vậy là vô lý. Đời của chúng ta cao đẹp lạ lùng, và bạn phải dùng thời giờ của bạn để kiếm tiền vì có tiền bạn mới có nhiều năng lực. Vậy mà thành phần khinh tiền mạnh tới nỗi có nhiều kẻ nghĩ rằng được trời cho nghèo là một vinh dự rất lớn. Nhiều bạn đương ngồi trước mặt tôi đây nghĩ như vậy. Có lần tôi được nghe trong một cuộc diễn giảng một người cảm ơn Thượng Đế vì được ở trong cảnh nghèo và tôi yên lặng tự hỏi không biết bà vợ ông ta nghe thấy vậy sẽ nghĩ sao vì có lẽ bà ta phải giặt đồ để nuôi ông chồng cho ông an nhàn phì phào điểu thuốc, dưới mái hiên. Tôi không muốn thấy hạng người muốn nghèo ấy.
Khi một người có thể giàu được mà chịu nghèo, thành thử không làm được gì hết, thì người đó có lỗi lớn vì đã không trung tín với chính thân họ mà còn độc ác với kẻ thân nữa. Nếu có thể làm giàu một cách lương thiện và hợp đạo lý được thì ta phải làm giàu. Và cũng chỉ có cách đó mới giúp ta mau giàu thôi.
Tôi nhớ máy măm trước, một sinh viên còn trẻ, theo khoa thần học, lại bàn giấy của tôi mà nói rằng chàng có bổn phận phải lại "bàn cãi với tôi".
Tôi hỏi: "Có chi vậy ?"
Chàng đáp "Thưa ông, tôi thấy rằng tôi có bổn phận phải lại để nhắc ông rằng Thánh thư có nói "Tiền bạc là nguồn gốc của mọi điều xấu".
Tôi hỏi chàng ta thấy câu đó ở đâu.
Chàng đáp ở trong Thánh thư.
Tôi lại hỏi có phải chàng đã in một Thánh thư mới không.
Chàng đáp: "Không, chính ở trong Thánh thư cũ".
Tôi bảo: "Nếu phải ở trong Thánh thư của tôi thì tôi chưa thấy câu ấy. Thầy làm ơn kiếm giùm và chỉ cho tôi coi".
Chàng đi ra một lúc sau trở vô, vênh váo, cuốn Thánh thư mở sẵn, vẻ khoe khoang, tự đắc của tín đồ có óc hẹp hòi, hiểu lầm Thánh thư rồi cho rằng tín điều của mình đúng như trong đó.
Chàng đặt cuốn sách lên bàn, thiếu điều hết vào tai tôi : "Đây, ông đọc lấy đi".
"Này em, ít tuổi nữa em sẽ khôn. Một tín đồ khác phái với mình thì đừng tin họ, đừng bảo họ đọc Thánh thư thay cho mình. Mà tôi theo một phái khác với em. Vậy em nên đọc lấy".
Chàng ta cầm cuốn Thánh thư rồi đọc: "Lòng yêu tiền bạc là nguồn gốc của mọi điều xấu."
Và chàng đã đọc đúng.
Cuốn sách bất hủ ấy đã được dân gian yêu mến và được các bậc vĩ nhân ở thế giới kính trọng, bạn có thể theo đó mà hành động suốt đời bạn, không ngại ngùng gì cả. Bạn có thể trích một đoạn trong ấy để dẫn chứng nữa.
Khi chàng đó trích đúng Thánh thư thì có gì sai chân lý đâu. "Lòng yêu tiền bạc là nguồn gốc của mọi điều xấu".
Thì đúng vậy. Chính lòng sùng bái phương tiện chứ không phải lòng sùng bái mục đích nọ là nguồn gốc của mọi điều xấu, mặc dầu không có phương tiện thì không đạt được mục đích. Khi một kẻ thờ kim tiền như thờ một ngẫu tượng, chứ không thờ những mục đích cao cả mà kim tiền có thể giúp ta đạt được, khi y ghì chặt lấy những tấm giấy bạc tới nỗi những con voi in trên đó phải kêu lên, thì tiền của quả là nguồn gốc của mọi điều xấu thật.
Bạn thử tưởng tượng nếu có tiền thì bạn có thể giúp cho vợ con, gia đình và châu thành của bạn được những gì.
Bạn thử nghĩ nếu có tiền và bạn hảo tâm nữa thì trường đại học Temple sẽ được nhờ bạn biết bao!
Vậy mà thưa bạn, có những kẻ khuyên bạn và tôi đừng nên làm giàu. Lời ấy thật là không đứng vững được. Bạn phải giàu vì tiền của sinh ra năng lực...
Chúng ta có thành kiến không tốt đối với hạng phú gia vì có nhiều người nói xấu họ với ta quá. Biết bao người tin những lời nói xấu về ông Rockefeller chỉ vì ông có 200 triệu mỹ kim; thiên hạ thật hiểu lầm ông. Báo chí bay giờ ráng đăng những tin ly kỳ để bán cho chạy, thành thử chúng ta đọc được rất ít những tin đích xác. Cách họ nói xấu các phú ông thật là ghê gớm và không có thí dụ nào rõ ràng hơn là những điều sai ngoa hiện đương đăng trong báo về tỉnh Philadelphia này.
Hôm nọ một người lại bảo tôi : "Nếu ông Rockefeller tốt như ông tưởng thì sao mọi người chỉ trích ông ta như vậy ?".
Vì ông hơn chúng ta. Chỉ có vậy thôi. Ông đã hơn chúng ta cho nên chúng ta không ưa ông. Tại sao ông Carnegie bị một bọn ghen ghét chỉ trích dữ tợn như vậy ? Vì ông nhiều tiền hơn ta. Nếu một người biết nhiều hơn tôi, có phải tôi cũng có ý muốn chỉ trích sự hiểu biết của người đó không ? Một người thuyết giáo được hàng ngàn tín đồ nghe, còn tôi chỉ có được 15 thính giả mà họ lại ngủ gục hết thì tôi có chỉ trích người kia không ? Chúng ta luôn luôn chi trích người hơn ta...
Một người giàu nhất miền này lại thăm tôi, và nói với tôi trong phòng khách :
- Ông có thấy các báo nói xấu gia đình tôi không ?
- Có và tôi biết rằng họ nói sai hết.
- Nhưng họ nói vậy làm chi ?
- Ông ký cho tôi một chi phiếu là 100 triệu đi và tôi nhận hết những lời nói xấu thay ông.
-Tôi không hiểu họ nói xấu gia đình tôi và tôi vì lẽ gì. Ông Conwell, ông cứ nói thẳng cho tôi biết dân tộc Mỹ xét tôi ra sao.
- Họ cho ông là thằng vô lại đê tiện nhất trên đời.
- Như vậy tôi xử trí thế nào được ?
Không có cách nào xử trí được hết. Mà ông ta là một trong những người theo đạo và hiền lương nhất tôi được biết. Nếu bạn có 100 triệu Mỹ kim thì bạn phải bị người ta nói xấu. Bất kỳ trong phạm vi nào, chỉ xét những lời thiên hạ nói xấu bạn, bạn cũng biết bạn thành công hay không.
♦♦♦♦♦♦
♦♦♦
♦
Tôi nói bạn phải giàu, nhưng luôn luôn có những bạn thanh niên lại bảo tôi :
- Tôi muốn làm ăn mà không được.
- Tại sao ?
- Tại tôi không có vốn.
Phải có vốn! Phải có vốn để làm ăn! Bạn sống ở Philadelphie, thấy bọn phú ông người nào hồi trước cũng nghèo khổ hết, mà bạn phải cần có vốn mới khởi sự được ư? Không có vốn là phước cho bạn đó. Thấy bạn không có vốn, tôi mừng lắm. Tôi thương hại con trai những phú gia. Nhưng cậu Hai, cậu Ba đó ở thời buổi này có một địa vị thật khó khăn. Họ đáng thương. Họ không biết nổi những cái quý nhất trong đời người.
Theo những bảng thống kê ở Massachusetts, trong số 17 các cậu con nhà phú gia, không cậu nào khi chết mà giàu hết. Họ sinh trưởng trong cảnh giàu sang thì họ chết trong cảnh nghèo hèn. Mà dù có giữ được của cải cha để lại nửa, họ cũng không biết những cái quý nhất trong đời người.
Một thanh niên học sinh của chúng tôi xin tôi cho biết cái giờ sung sướng nhất trong đời người là giờ nào. Tôi suy nghĩ kỹ và tin chắc rằng giờ đó là giờ người thanh niên dắt vợ bước qua bực cửa ngôi nhà mà chính mình dành dụm dựng lên, rồi quay lại nói với vợ bằng một giọng hùng hồn, tôi không tả nổi : "Mình, anh đã hoàn toàn tay trắng làm nên, cất được ngôi nhà này đây. Nó hoàn toàn của anh và hai đứa mình hưởng chung". Đó, giờ phút ấy đẹp nhất trong đời người. Mà con phú gia biết sao được nỗi vui ấy. Y được ngôi nhà có lẽ đẹp hơn, nhưng khi y dắt vợ đi ngắm nghía các đồ đạc, gặp món gì, y cũng phải nói : "Má anh đã cho anh cái này, má anh đã cho anh cái kia", thét rồi, cô vợ phải yêu bà mẹ chồng hơn là yêu chồng.
Tôi thương hại con nhà phú gia làm sao! tôi thương hại họ, cho đến khi họ nô nức theo mốt làm cho tôi phải ghét họ. Bạn có gặp họ thơ thẩn đi ở Atlantic City không ? Tôi đã được thấy một chàng trong bọn hình nộm đó và không khi nào quên y được.
Sau khi diễn thuyết về thác Niagara, tôi trở về khách sạn, tới bàn viết của thầy thư ký thì gặp con một nhà triệu phú ở Nữu Ước. Thật là y tiêu biểu cho hạng tàn tật. Y cắp nách cây can đầu bằng vàng. Đầu óc y không có giá trị bằng đầu cây can đó nữa. Có ráng tả y cũng không nổi, nhưng tôi phải cho bạn hay rằng y tuy đeo chiếc kính một mắt nhưng y không thấy gì hết ; đi một đôi giày "bóng" nhưng bước không được, bận chiếc quần mốt nhưng không dám ngồi. Y như một con cào cào. Con người cào cào ấy lại bàn giấy cùng một lúc với tôi, sửa lại chiếc kính rồi nói giọng đớt và ngọng như sau này :
- Thầy cho tui ít giấy dà bao thư.
Thầy thư ký ngó ý, đoán ngay được hạng nào rồi, mở hộc lấy bao thư và giấy, liệng lên trên bàn rồi tiếp tục làm sổ sách.
Nhân vật tiêu chuẩn đó thường được kẻ hầu người hạ đoán trước ý mình, cho nên lần này ngạc nhiên lắm, sửa lại chiếc kính vô dụng, rồi cao giọng nói:
"Ồ ! ồ ! thài cho người bồi mang giấy dà bao thư lại phòng giấy của tui"
Tội nghiệp cho con khỉ làm bộ làm tịch ấy. Từ chỗ đó về phòng y có mấy bước mà y mang mấy tờ giấy và mấy chiếc bao thư cũng không được. Chắc y không cất tay được nữa. Tôi không thương hại hạng lố lăng ấy.
Nếu bạn không có vốn, tôi rất mừng cho bạn. Bạn không cần vốn, bạn cần lương tri, chứ không cần tiền.
Ông A.T. Stewart, nhà buôn lớn nhất Nữu Ước, người giàu nhất châu Mỹ thời đó, hồi nhỏ rất nghèo, khi bắt đầu ra làm ăn, chỉ có một Mỹ kim rưỡi. Ông mua kim và chỉ để bán nhưng không ai mua, thành thử tiêu tan gần hết số vốn ấy.
Kem da liễu họ Chúc đặc trị các bệnh da liễu như á sừng, vẩy nến, nấm, viêm da cơ địa,...
Bạn nghèo ư? Là vì người ta không cần tới bạn. Bài học đó quan trọng nhất, áp dụng vào bất kỳ ai cũng đúng hết. Ông Stewart không biết người đời cần gì, đi bán những thứ mà không ai muốn, cho nên lỗ. Nhưng thất bại đó là một bài học quan trọng trong đời buôn bán của ông và ông tự nhủ : "Từ nay ta phải xét xem người ta cần cái gì rồi hãy bán".
Rồi ông đi khắp nhà này nhà khác, hỏi xem người ta cần món gì, còn lại ít tiền ông mua những món đó. Bạn làm nghề gì cũng vậy, dù là nghề luật sư, y sĩ hoặc gác cổng, dạy học, quy tắc cũng vẫn không thay đổi: biết người ta muốn cái gì rồi kiếm cho người ta cái ấy. Như vậy sự thành công sẽ gần như chắc chắn. Ông Stewart tiếp tục áp dụng quy tắc đó cho tới khi ông có được 40 triệu Mỹ kim.
Bạn sẽ nói: "Ở Nữu Ước làm như vậy được, chứ ở Philadelphie này?". Theo các bảng thống kê thì có hồi ở Nữu Ước người ta đếm được tới 107 người giàu trên 10 triệu Mỹ kim. Nhiều thật chứ ! Nhưng trong 107 nhà triệu phú ấy chỉ có 7 người làm giàu tại Nữu Ước thôi ! Còn 100 người kia thì làm giàu ở nơi khác rồi mới tới Nữu Ước. Mà trong số 100 người này thì 67 người làm giàu tại những châu thành không quá 6.000 dân và người giàu nhất nước Mỹ hồi ấy ở hoài tại một thị trấn nhỏ, chỉ có 3.500 người thôi, không bao giờ rời nơi đó hết. Vì chỗ ở không quan trọng bằng nhân cách của bạn, và nếu chỗ ở có cần thiết thì bạn nên nhớ rằng chính trong những châu thành nhỏ nhất mới có nhiều cơ hội làm giàu nhất.
Một thí dụ rất rõ ràng là trường hợp của John Jacob Astor, hồi nhỏ nghèo mà sau gây nên sự nghiệp cho họ Astor. Một mình ông kiếm được nhiều tiền hơn hết thảy những người kế nghiệp ông. Vậy mà hồi mới ông chỉ có mỗi một cửa hàng bán đồ tân thời ở Nữu Ước. Cửa hàng ấy vốn của người chủ kiếm không đủ trả tiền lời, tiền mướn phố, John Jacob Astor bèn bỏ vốn ra trả hết rồi làm chủ cửa tiệm, buôn bán chung với người chủ cũ :
Ông vẫn giữ những hàng cũ, không mua thêm một đồng nào nữa, để cho người kia coi cửa tiệm, còn ông lại một vườn hoa, ngồi chơi trên ghế, làm cái việc quan trọng nhất và theo ý tôi cũng thú vị nhất, là ngắm các cô các bà đi đi lại lại.
Người nào làm cái trò chơi đó mà không giàu ? Khi thấy một bà đi ngang, ngửng đầu, ưỡn ngực tự đắc, như không thèm để ý tới ai hết, thì ông John Jacob nhận xét chiếc nón của bà ta, nhớ kỹ hình dáng nó, cách làm nó, màu sắc của cái dải. Rồi ông tạ trở về tiệm, nói : "Anh đem bầy ở cửa hàng một chiếc nón mà tôi sẽ tả cho anh đây vì tôi thấy một bà thích nó lắm. Nhưng đừng làm thêm chiếc nào nữa nhé ; đợi tôi trở về đã". . . . .
Rồi ông ta trở lại ngồi ở vườn hoa. Một bà khác đi ngang qua, hình dáng khác, nước da khác, và tất nhiên là chiếc nón cũng hình dạng khác, màu sắc khác. Ông lại trở về tiệm. bảo bạn :
- Anh bày ở cửa tiệm một chiếc nón như thế này đi,
Ông không phải là hạng người đem bày đầy tiệm những chiếc nón xấu xí tới nỗi khách hàng trông thấy phải chạy trốn, rồi ngồi ở phía trong mà chỉ trích họ để mất mối đâu. Ông cũng không bầy một chiếc nón nào mà ông chưa trông thấy ai đội hết.
Nếu tôi xin các bạn giới thiệu tôi với các nhà phát minh có tài ở tỉnh Philadelphia này, chắc các bạn sẽ nói "Các nhà phát minh ? Ở Philadelphia này làm gì có ? Tại đây người ta chậm chạp quá, không phát minh được gì hết". Nhưng ngay ở trong phòng này cũng có những nhà phát minh đại tài, vì có thể rằng một nhà phát minh đại tài, làm cho cả nhân loại được nhờ lại là một ông hoặc một bà đã phát minh mà chính họ không hay, tự cho là không biết phát minh.
Bạn đọc tiểu sử các nhà phát minh có danh, chắc nhận thấy điều lạ lùng này: họ không ngờ rằng họ là một nhà phát minh. Họ là ai ? Là những người có lương tri, tính tình giản dị và ưa thực tế, khi nhận thấy thiên hạ đương cần dùng một cái gì là nghiên cứu ngay nhu cầu đó. Nếu bạn muốn phát minh thi xin bạn đừng suy nghĩ mà cũng đừng tìm tòi trong máy móc. Hãy kiếm nhu cầu của nhân loại rồi ráng sức làm thỏa mãn nó. Những người mà bạn không ngờ là nhà phát minh, nhờ cách ấy mà phát minh được. Họ là những vĩ nhân. Càng là vĩ nhân, họ càng giản dị, cũng như máy giản dị chừng nào thì có giá trị chứng này.
Bạn có biết một người thật là vĩ nhân không? Điệu bộ của họ giản dị lắm, thường lắm, đến nỗi bạn tưởng rằng ai cũng có thể làm những việc họ đã làm được. Hết thảy những vĩ nhân trên thế giới đều như vậy. Nếu ông hàng xóm của bạn là một vĩ nhân thì bạn có thể nói thẳng với ông ta : "Chào anh Sam. Anh mạnh không anh Sam ?" vì họ luôn luôn giản dị.
Khi tôi viết về đời của đại tướng Garfield, một người láng giềng của đại tướng dắt tôi vô cửa sau nhà đại tướng và kêu : "Jim Jim !". Tức thì Jim" hiện ra ở bực cửa: chính là đại tướng Ngài mời tôi vào. Ngài là một vĩ nhân của thế kỷ. Nhưng vĩ nhân ở khắp thế giới đều luôn luôn như vậy.
Lần khác, tại một học đường ở Virginie có người dắt tôi lại bên một ông già đương bứng cây. Tôi hỏi người ấy:
- Tôi có thể gặp đại tướng Lee, Viện trưởng trường đại học này được không?
Ông giả đương bứng cây, nghe thấy vậy nói:
- Thưa ngài, chính tôi là đại tướng Lee đây.
Khi gặp những người cao thượng như vậy, bạn thấy họ lúc nào cũng giản dị. Cao thượng thì luôn luôn nhũn nhặn và những phát minh lớn lao cũng luôn luôn giản dị.
Tôi hỏi học sinh một lớp nọ : "Những nhà phát minh có tài nhất là ai ?", một em gái đứng dậy đáp : "Kha Luân Bố".
Ý kiến em đó không sai lắm đâu. Khá Luân Bố mua rồi khai phá một cái trại cũng như tôi đã khai phá trại của ông thân tôi vậy. Ông cầm một cái cuốc, ngồi trên một mỏm đá bên bờ biển nhìn ra ngoài khơi và nhận thấy tàu khi xa bờ thì cột buồm như chìm lần lần xuống dưới nước. Do đó ông đoán rằng trái đất tròn, rồi ông đi tìm Ấn Độ mà gặp được châu Mỹ.
Thật giản dị làm sao! Những nhà phát minh đại tài là những người giản dị. Họ thấy được loài người cần những gì rồi ráng làm thỏa mãn nhu cầu ấy.
Có một lần tôi diễn thuyết ở miền bắc Carolina. Một thầy thủ quỹ cho một ngân hàng ngồi sau lưng một bà đội chiếc nón rất lớn. Tôi nói với thính giả : "Sự giàu có ở ngay bên cạnh các bạn mà các bạn đi tìm ở xa". Thầy ấy nói với một người bạn: "Nếu vậy thì sự giàu có của tớ ở trong chiếc nón này rồi. Ít lâu sau, thầy ta viết cho tôi: "Hễ tìm thấy nhu cầu ở đâu thì cũng tìm thấy ở đó nhiều tiền của hơn là đào được một cái mỏ nữa".
Vì thầy ta đã hiểu ý tôi và chế ra một thứ ghim nón tốt hơn là thứ ghim của bà ngồi trước mặt. Thứ ghim ấy bây giờ rất thông dụng và người ta đã mua cái bằng sáng chế của thầy là 55 ngàn Mỹ kim.
Vậy ta có thể nói rằng thầy ấy chưa ra khỏi phòng diễn thuyết đã làm giàu rồi. Tất cả vấn đề đều ở đó : tìm ra được một nhu cầu.
Tôi nhớ một ông lão nghèo ở miền đồi núi nơi quê tôi, nghèo tới nỗi châu thành phải cưu mang cho trong 20 năm. Một cây phong cành lá sum xuê che cái chòi của ông.
Tôi còn nhớ cây ấy vì tới mùa xuân ông đặt một cái thùng và những cái mảng nhỏ để hứng nhựa cây; tôi còn nhớ rõ thùng ấy đặt ở nơi nào nữa. Hồi ấy tôi còn nhớ, những đứa con nít quỷ quái lại gốc cây từ sáng sớm, khi ông ta chưa thức dậy và buổi tối, khi ông ta đã đi ngủ, để uống nhựa ngọt của cây, thành thử ông hứng được rất ít nhựa.
Nhưng một hôm ông làm cho nhựa trắng ra và kết tinh lại tới nỗi một người khách không nhận ra được là nhựa cây phong nữa. Người khách tin rằng nhựa ấy phải đỏ hoặc đen và bảo ông già: "Sao ông chẳng chế nhiều thứ đường này mà bán cho những người làm mứt?"
Ông già nghe theo, chế thử đường cục, và bằng sáng chế của ông làm giàu cho ông được 90 ngàn Mỹ kim. Ông cất một lâu đài ngay chỗ cây phong đó. Thành thử ông làm chủ cây ấy đã 40 năm, rồi một hôm mới tỉnh giấc mê mà thấy rằng mình có cả một gia tài lớn mà không hay. Nhiều người trong chúng ta cũng đứng gần một thân cây quý vô cùng.
Chúng ta làm chủ nó, muốn dùng nó ra sao thì dùng mà không biết rằng nó là một gia tài vậy. Là vì chúng ta không thấy rõ nhu cầu của loài người...
Một ông ở Ohio, mùa xuân năm ngoái mời tôi lại thăm xưởng của ông ta, nói với tôi: "Xưởng này đáng giá 680.000 Mỹ kim. Trước khi nghe bài diễn văn : "Hàng mẫu kim cương" của ông, con người tôi không đáng giá lấy một xu, nhưng tôi đã quyết định ở lại đây, gây dựng cơ nghiệp tại đây, và cơ nghiệp của tôi đó". Sau mấy năm diễn thuyết, tôi đi du lịch khắp nước và luôn luôn được những kinh nghiệm như vậy.
Tôi kể chuyện đó lại đây không phải để khoe mà để chỉ cho bạn thấy rằng nếu bạn muốn thì cũng có thể thành công như ông ấy được.
Những nhà phát minh đại tài là ai ?
Tôi nhớ đến chuyện một người khác ở East Brookfield, xứ Massachusetts. Anh ta đóng giày, thất nghiệp, ngồi lê hết xó này tới xó khác trong nhà đến nỗi làm vướng chân chị vợ, khiến chị này phải "mời anh ra ngoài". Anh đành vâng lời vợ, cũng như mọi người chồng khác vậy, ra ngồi trên một thùng đựng tro ở ngoài sân. Bạn thử tưởng tượng tình cảnh anh ta. Kẻ thù chiếm nhà mình, còn mình bị phiêu giạt trên thùng tro.
Ngồi đó anh ta ngó dòng suối nhỏ chảy qua sân vào bãi cỏ ở sau nhà và thấy một con cá hương lội ngược dòng, khi thì lấp lánh dưới ánh nắng, khi thì lẩn núp dưới đám cỏ 2 bên bờ... Anh ta nhảy chồm lên, rán bắt con cá rồi gởi lại Worcester. Họ trả lời rằng nếu bắt được con cá như vậy nữa thì sẽ gởi cho anh 5 Mỹ kim để giúp anh ta, chứ không phải con cá giá đáng bấy nhiêu.
Thế là 2 vợ chồng lại hòa thuận với nhau, đi bắt con cả khác vì hy vọng được số tiền ấy. Họ đi ngược dòng tới ngọn, rồi lại đi xuôi tới vàm (ngã ba), nhưng không thấy cá hương nào khác. Họ chán nản ủ rũ, lại thăm ông mục sư. Ông không biết loài cá hương sanh sản ra sao nhưng chỉ cho họ cuốn “sách của Seth Green để họ tra cứu. Họ mua cuốn sách, học được cách nuôi cá hương. Sách biểu rằng cá hương mỗi năm đẻ 3600 trứng, và mỗi con mỗi năm cân nặng hơn được 3 lượng, nghĩa là nuôi một con cá hương nhỏ thì 4 năm sau mỗi năm bán được 4 tấn cá, mà giá trị mỗi ki-lô là 1 Mỹ kim.
Họ cho điều ấy khó tin lắm, nhưng cũng nuôi thử vài con, vì ít gì cũng được 5 Mỹ kim. Và ở ngay trong sân họ dăng lưới phía trên và dưới dòng suối, ở phía giữa nuôi cá. Sau khi họ thiên cư qua miền Hudson và bây giờ người chồng đã thành một nhà chuyên môn có danh về nghề nuôi cá ở Hoa Kỳ, được lãnh chức phó chủ tịch trong ủy ban nuôi cá ở Hoa Thịnh Đốn.
Tiền của ở ngay trong cái sân ấy mà 20 năm trời anh ta không hay, phải đợi chị vợ cầm cán chổi đuổi ra ngoài, anh mới thấy. Đó là phần luân lý trong truyện.
Tôi nhớ có lần gặp một anh thợ mộc nghèo, thất nghiệp ở Hingham, xứ Massachusetts.
Anh ta cũng bị vợ đuổi ra khỏi nhà, ngồi bên bờ sông, lấy dao đẽo một tấm ván ướt để làm một dây chuyền bằng gỗ. Tối hôm ấy, mấy đứa con của anh tranh nhau đồ chơi đó và trong khi anh đẽo một dây thứ nhì thì một người hàng xóm vào và nói :
- Anh đẽo khéo vậy, sao không làm đồ chơi mà bán?
- Tôi biết làm đồ chơi gì bây giờ? (cả vấn đề là ở đó)
- Hỏi tụi con anh thì biết.
- Vô ích. Vì con tôi có giống con người đâu.
Sáng hôm sau, khi con trai anh xuống cầu thang, anh hỏi nó :
- Sam, con muốn thứ đồ chơi ra sao ?
- Con muốn một cái xe một bánh để đẩy (xe cut-kít).
Tới phiên đứa con gái xuống :
- Con muốn thứ đồ chơi ra sao ?
- Con muốn một cái thùng tắm cho búp bê, một chiếc xe cho búp bê, một cây dù cho búp bê.
Có biết bao nhiêu món, làm suốt đời cũng không hết. Rồi anh bắt đầu đẽo đồ chơi sao cho chúng vừa ý. Anh gọt bằng một con dao nhỏ, xong rồi để mộc, không sơn phết gì cả. Bây giờ, theo ông Lawson, thì anh là người giàu nhất ở New England, mà được vậy là nhờ anh hỏi ý các con anh ngay trong nhà anh. Bạn không cần ra khỏi nhà cũng biết được nên phát minh cái gì, chế tạo cái gì. Tôi có tật gặp đầu đề ấy thì nói dài quá, xin lỗi các bạn nhé !
♦♦♦♦♦♦
♦♦♦
♦
Tôi muốn được gặp một danh nhân ở đây tối nay.
Danh nhân ! Bạn nói ở Philadelphia này không có và những danh nhân đều ở Luân đôn hoặc Cựu kim sơn, La mã, Manayunk hay một nơi nào khác kia lại đây, chứ ở đây không có. Nhưng sự thực thì ở Philadelphia này cũng có nhiều danh nhân như tại những châu thành lớn tương đương với nó.
Trong số thính giả tại phòng này có nhiều danh nhân, bên nam cũng như bên nữ. Tôi đã nói rằng danh nhân luôn luôn giản dị. Khỏi tìm ở đâu, tại đây cũng có nhiều danh nhân như những nơi khác. Sự lầm lỡ lớn nhất là cứ tưởng rằng danh nhân luôn luôn giữ một chức vụ trong chính phủ... Sở dĩ vậy là vì ở trong các trưởng, từ ban sơ học đến ban đại học, người ta dạy chúng ta như thế...
Chúng ta phải dạy cho trẻ em và thanh niên rằng cái chân giá trị của ta làm cho ta thành vĩ nhân chứ không phải cái địa vị mà ta tình cờ chiếm được. Tuy vậy chúng ta đừng trách những thanh niên tự cho mình sắp thành vĩ nhân khi họ có được một địa vị trong chính phủ.
Tôi hỏi thính giả một lần nữa : "Ai là người sắp thành vĩ nhân" ? Một thanh niên đáp : "Tôi". - Và khi nào bạn thành vĩ nhân ? . " Khi tôi có chân trong trường chính trị".
Bạn có biết rằng tại nước mình, làm công chức là có óc hẹp hòi không ? Bạn thử nghĩ, chính thể của nước ta là một chính thể của dân, do dân và vì dân, chứ không phải là một chính thể vì công chức. Thánh kinh nói : "Kẻ đầy tớ không thể lớn hơn ông chủ được", "kẻ bị sai phái không thể lớn hơn kẻ sai phải được".
Trong xứ này, dân làm chủ, và công chức không thể nào lớn hơn dân được. Bạn thanh niên bạn nên nhớ rằng không bao giờ bạn nghe nói ở nước ta có một vĩ nhân nào lại chịu làm công chức, trừ phi họ chịu thiệt cho họ thì không kể. Vì như vậy là thiệt cho họ lắm, Bạn được người ta bầu lên thì nên nhớ rằng không làm sao lớn được hết.
Một thanh niên khác nói :
- Một ngày kia tôi sẽ thành một vĩ nhân ở Philadelphia.
- Thế ư ? Bao giờ vậy ?
- Trong trận giặc sau này. Khi chúng ta chiến tranh với Mexique hoặc Anh, Nga, Nhật bổn, hoặc lại chiến tranh với Y Pha Nho vì đảo Cuba nữa, hoặc với Newersey. Lúc ấy tôi sẽ thẳng tiến tới họng súng và giữa rừng gươm lấp lánh, tôi sẽ giựt xé cờ của quân địch, tôi ẽ khải hoàn với những ngôi sao trên vai, chính phủ sẽ cho tôi một địa vị nào đó và tôi sẽ thành vĩ nhân.
- Không. Không. Đó không phải là một dấu hiệu tỏ rằng bạn là một vĩ nhân đâu. Nhưng xin bạn đừng trách nhưng kẻ nghĩ như vậy nhé, vì trong các trường người ta dạy họ như vậy, người ta đã dạy sử theo lối ấy. Người ta dạy họ rằng kẻ cầm quyền là người có công chiến đấu nhất.
Tôi nhớ ít lâu sau vụ xung đột với Y Pha Nho, có lễ đình chiến ở Philadelphia. Khi đám người biểu diễn qua đường Broad, người ta nói với tôi rằng chiếc xe đi đầu ngừng ngay trước nhà tôi và ông Hobson ngồi trên xe. Công chúng tung nón lên trời, lấy mùi soa vẫy vẫy, hoan hô Hobson nhiệt liệt. Có lẽ tôi cũng đã hoan hô ông ta vì không ai xứng đáng được hoan hô bằng ông.
Nhưng nếu ngày mai tôi lại một trường đại học hỏi : "Các em, ai đã đánh đắm chiếc Merrimac?" và nếu họ đáp :"Hobson" thì 8 phần họ sai tới 7 phần vì cả thảy có 8 người đánh đắm chiếc Merrimac. 7 người kia vì nhiệm vụ, phải luôn luôn đứng dưới làn tên lên mũi đạn của quân địch còn Hobson là sĩ quan, có quyền được núp sau ống khói.
Trong số thính giả thông minh tụ họp ở đây tôi không tin rằng có lấy một vị chỉ cho tôi được tên một trong 7 người lính thủy đứng chiến đấu với Hobson hôm ấy. Tại sao ta dạy sử ký lối đó ? Chúng ta đáng lẽ phải dạy rằng địa vị nhỏ tới đâu mặc dầu, nếu một người làm tròn bổn phận của mình thì cũng đáng được quốc dân ngưỡng mộ bằng một hoàng đế trên ngai vàng chớ ! Lối dạy của chúng ta y như lối của một bà mẹ ở Nữu Ước dạy con nhỏ khi nó hỏi bà :
- Má, ngôi nhà gì lớn dữ vậy ?
- Không phải nhà, đó là mộ đại tướng Grant.
- Đại tướng Grant là ai vậy ?
- Ngài là vị anh hùng đã dẹp được quân phiến loạn,
Có nên dạy sử như vậy không ? Bạn có tin rằng nếu chỉ có một mình đại tướng Grant, chúng ta đã thắng trận được không ? Không. Vậy thì tại sao lại chỉ dựng mỗi ngôi mộ đó ở bên bờ vịnh Hudson ? Không phải chỉ có Đại tướng là vĩ nhân mà tại ông là nhân vật tiêu biểu cho 200 ngàn người hy sinh vì tổ quốc và trong số ấy có rất nhiều bực vĩ nhân như đại tưởng vậy.
Tôi nhớ một chuyện chứng minh điều đó. Kể lại tôi mắc cỡ lắm, nhưng tôi không thể bỏ qua được.
Tôi nhắm mắt nhớ lại năm 1863, còn trông thấy quê hương tôi ở trên núi Berkshire, còn trông thấy chợ bán súc vật đầy người, còn trông thấy nhà thờ và thị sảnh đông nghẹt, nghe thấy kèn thổi, trống đánh, trông thấy những lá cờ phấp phới và những khăn mùi soa vẫy vẫy. Phải, tôi nhớ rõ ngày ấy dân chúng tiếp rước một đội binh đương tiến thẳng tới khu đất công cộng trong châu thành.
Đội binh ấy đã chiến đấu trong trận Nam Bắc phân tranh, sau lại tình nguyện ra trận nữa và lần này trở về được dân trong châu thành của họ tiếp rước. Lúc đó tôi còn nhỏ tuổi lắm, nhưng được làm đội trưởng và không có ai tự đắc bằng tôi nữa. Chúng tôi tiến vào thị sảnh và người ta để đợi dân quan của tôi ngồi giữa phòng, tôi tại hàng đầu.
Các ông hội đồng thành phố len lỏi qua đám đông đương chen chúc chung quanh chúng tôi, để tiến vào; leo lên bệ ngồi thành hình bán nguyệt, ông thị trường ngồi giữa. Ông đã già, tóc hoa râm, trước kia chưa hề làm việc trong chính phủ. Ông tưởng rằng chức vị của ông đủ làm cho ông thành một vĩ nhân.
Ông đeo cặp kính lớn, ngó khắp phòng với một vẻ trang nghiêm lạ lùng. Thình lình ông trông thấy tôi, bèn đứng dậy, tiến lại mời tôi lên cùng ngồi ở trên đài với các ông hội đồng. Cái thằng tôi mà được ngồi ở trên đài ! Trước khi ra trận, có bao giờ tôi được các ông hội đồng ngó ngàng tới đâu. Tôi kéo ghế, để rớt thanh gươm xuống sàn, khoanh tay trước ngực rồi đợi người ta hoan hô Na Phá Luân đệ ngũ đây !
Sự tự đắc đi trước rồi sự sụp đổ theo sau mà ! Khi cả phòng im như tờ, vị chủ tịch của một hội đồng được dân bầu (tức ông thị trưởng) đứng dậy, vẻ uy nghi lẫm liệt và ai nấy đều tưởng ngài sắp giới thiệu một diễn giả là vị mục sư của châu thành để ca tụng các chiến sĩ là chúng tôi vì cả châu thành chị có vị mục sư đây là có tài hùng biện thôi. Nhưng người ta ngạc nhiên làm sao khi thấy ông chủ già nua ấy đứng lên đích thân diễn thuyết. Ông chưa hề nói trước công chúng bao giờ và cũng lầm lỡ như các diễn giả khác đi trước ông hoặc sau ông vậy. Ông tưởng rằng địa vị của ông bắt buộc ông phải thành một diễn giả.
Ông soạn lấy bài diễn văn rồi đi bách bộ trên bãi cỏ của châu thành để học thuộc lòng nó - báo hại làm cho đàn bò táng đởm ! Ông mang theo bài diễn văn, móc nó ở trong túi ra, đặt nó cẩn thận ở trên bàn, rồi sửa lại cặp kính để coi cho rõ hơn, trịnh trọng lui lại vài bước, y như lên sân khấu vậy, rồi ngừng lại như thế này này. Chắc ông đã nghiên cứu kỹ những sách dạy diễn thuyết cho nên ông tập được đứng những điệu bộ trên diễn đàn.
Ông đưa chân trước ra, ưỡn ngực lên, để cho chân trái chịu hết cả sức nặng của người ông, tay phải đưa xeo xéo đúng 45 độ như thế này. Đã có vài ông bạn nghe tôi kể lại, hỏi tôi rằng tôi có nói quá không. Không. Nói quá làm sao được ? Rồi ông ta mở đầu như vầy :
-" Thưa các bạn"
Ông mới nghe thấy giọng của ông là tay ông run lên cầm cập, đầu gối ông cũng vậy, toàn thân ông cũng vậy. Ông đằng hắng, ho, quay gót trở lại; ngó trên miếng giấy rồi bắt đầu:
Thưa các bạn, chúng ta... chúng ta lấy làm... sung sướng lắm... được tiếp rước, vị thiếu niên anh hùng này (Ông ta muốn nói tôi)..., vị thiếu niên anh hùng này mà trong óc tưởng tượng của chúng ta... (xin các bạn nhớ, ông ta đã nói "trong óc tưởng tượng" của ông ta, không có lẽ gì tôi lại tự cao, tự đại mà bịa thêm câu ấy vào được)... trong óc tưởng tượng của chúng ta, chúng ta đã thấy.., đã thấy cầm đầu đội quân... cầm đầu đội quân... xông vào chỗ chết... để tấn công hầm núp của quân địch... Phải, chừng ta đã thấy thanh gươm của người, thanh gươm của người chói lọi, chói lọi... thấy thanh gươm của người chói lọi... rực rỡ dưới ánh sáng mặt trời... và chúng ta nghe thấy người hô : Tiến ! Tiến 1 Theo tôi ! Tiến !".
Thật lố bịch ! Quỷ thần ơi ! ông già thật chẳng biết chút xíu gì về phép tác chiến ! Nếu ông biết được chút ít thi ông phải rõ điều mà bất kỳ người lính nào ở trong phòng này cũng hiểu : một sĩ quan trong bộ binh khi gặp nguy hiểm mà tiến trước các quân lính tức là mang tội lớn với quốc gia.
Vậy mà ông nói tôi đã vung cây kiếm lấp loáng và hô : "Tiến !" Không khi nào tôi làm như vậy. Bạn thử nghi xem dại gì tiến trước để hứng đạn của quân địch ở trước mặt và đạn của quân mình ở sau lưng chứ ? Đó không phải là chỗ của một sĩ quan. Chỗ của họ là ở phía sau bộ đội khi lâm trận.
'' Hồi tôi còn ở trong bộ Tham mưu, có biết bao lần khi nghe thấy tiếng reo hò của quân địch ở khu rừng bên cạnh, tôi phải chạy ngựa dọc theo chiến tuyến la : "Sĩ quan, lùi về phía sau ! Lùi về phía sau, Sĩ quan !" và họ lùi cả về phía sau ! Không phải vì người ta kém can đảm đâu, nhưng vì luật chiến tranh bắt người ta như vậy. Nếu một tướng tiến tới trước mà bị giết thì sau quân cũng đai bại, vì ông chết tức là mất cả trận đồ và trận kế. Cho nên ông phải ở chỗ ít nguy để mà chỉ huy.
Mà ông già ấy bảo rằng tôi đã tiến ở giữa trời, rằng thanh gươm của tôi chói lọi dưới mặt trời ! Hôm đó trong phòng có những binh sĩ đã nhường tôi miếng bánh cuối cùng của họ, đã cõng tôi qua những dòng suối sâu. Có những chiến sĩ khác khuất mặt vì đã xả thân cho nước.
Nói cho ngay, diễn giả cũng có nhắc đến những người ấy, nhưng chỉ nhắc qua loa thôi. Chính họ mới là những người hy sinh cho tổ quốc, hy sinh cho chủ nghĩa mà họ sống để thờ, chết để nêu cao. (Tôi phải khen họ như thế để sau này người ta cũng khen tôi như thế). Vậy mà những kẻ đã chết vì non sông ấy lại được nhắc nhở đến rất ít, còn anh hùng lại chính là tôi ! Tại sao
Tại ông già đó cũng lầm lỡ như mọi người, ông trọng tôi vì tôi là sĩ quan.
Hôm ấy tôi đã học được bài này mà tôi nhớ hoài: không phải giữ một chức vụ mới là một vĩ nhân, vĩ nhân là người có ít phương tiện mà làm được một việc lớn, làm một dân thường mà đạt được những mục đích cao xa, đó mới thật là vĩ nhân.
Người nào giúp đồng bào có được những đường phố đẹp hơn, nhà cửa tốt hơn, trường học tốt hơn, nhà thờ tốt hơn, làm cho họ tín ngưỡng ở Trời hơn, có tinh thần tôn giáo hơn, được nhiều hạnh phúc hơn ; kẻ nào có thể làm ân nhân cho những đoàn thể trong đó họ sống, thì kẻ ấy bất kỳ ở đầu cũng sẽ là một vĩ nhân, còn người nào không gây được hạnh phúc cho ai hết thì không bao giờ thành vĩ nhân được cả, dù ở đâu cũng vậy. Ta thọ hay yểu là do hành động của ta, cảm tình của ta, tư tưởng của ta, chứ không phải do tuổi tác, do những con số trên lịch, do hơi thở của ta...
♦♦♦♦♦♦
♦♦♦
♦
Bailey nói: "Người nào suy nghĩ nhiều nhất là thọ nhất".
Nếu các bạn quên hết những điều tôi đã nói tối nay thì ít nhất cũng xin nhớ lấy lời sau này của Bailey, vì tuy chỉ có hai hàng, nhưng chứa nhiều ý nghĩa hơn cả bài diễn văn của tôi : "Người nào suy nghĩ nhiều nhất, có tình cảm cao thượng nhất, khéo hành động nhất là người ấy thọ nhất".
Xem thêm